Ứng dụng của Công nghệ sinh học trong chăn nuôi tại Việt Nam
Công nghệ sinh học là chìa khóa đổi mới trong chăn nuôi và có tác động to lớn đến ngành này. Những tiến bộ trong sinh học phân tử và sự phát triển nhanh chóng về sinh học sinh sản đã tạo ra những kỹ thuật mới ứng dụng trong chăn nuôi.
1. Thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo được đánh giá là biện pháp hữu hiệu trong chăn nuôi; nhất là đối với các gia súc như trâu, bò. Việc sử dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo trong chăn nuôi sẽ giúp người chăn nuôi giảm chi phí sản xuất, giảm những rủi ro do dịch bệnh gây ra trong quá trình nuôi dưỡng đực giống, tiếp cận dễ dàng với những nguồn tinh trùng có chất lượng cao, giảm số lượng đực giống phải nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi; giúp tránh được những bệnh lây lan qua đường sinh sản và các bệnh truyền nhiễm thông qua tiếp xúc trực tiếp, khắc phục sự chênh lệch về tầm vóc giữa con đực và con cái, kéo dài thời gian sử dụng đực giống và tăng hiệu quả kinh tế so với phối giống trực tiếp. Nếu phối giống trực tiếp thì một con đực chỉ phối được một vài con cái, nhưng nếu sử dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thì số lượng con cái được thụ tinh sẽ cao hơn rất nhiều; giúp các nhà chăn nuôi chọn được con giống tốt, tăng nhanh đàn và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tại Việt Nam, ngành nông nghiệp đã và đang phối hợp với chính quyền các địa phương đẩy mạnh thực hiện việc thụ tinh nhân tạo đối với trâu, bò cái nền địa phương để tăng đàn bò, trâu lai năng suất, chất lượng cao. Tại Vĩnh Phúc, năm 2018, số lượng bò được phối giống có chửa bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo cho tỷ lệ thụ thai đạt 76,8% đối với bò thịt; 69,2% đối với bò sữa; bê sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo mang lại giá trị kinh tế cao hơn bê sinh ra từ phương pháp nhảy trực tiếp từ 1-2 triệu đồng/con.
Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cũng đã và đang được áp dụng trên một số loài thủy cầm như ngan, vịt. Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên – Viện Chăn nuôi đã thành công trong việc thụ tinh nhân tạo cho ngan, vịt để tạo ra các con ngan lai vịt. Tỷ lệ phôi đạt được 85-95%; tỷ lệ nở đạt 82-85% phôi. Con ngan lai vịt nhanh lớn hơn ngan và vịt (siêu trội), tiêu tốn thức ăn thấp, có tuổi giết thịt ngắn hơn ngan; thịt ngon hơn thịt vịt; trắng hơn thịt ngan, tỷ lệ mỡ thấp; khối lượng giữa con đực và con cái chênh lệch nhau ít; sử dụng được cả con đực và con cái để nhồi gan béo, nâng cao giá trị sản phẩm lên nhiều lần.
Với những kết quả đạt được, thụ tinh nhân tạo là một chương trình mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao, chất lượng đàn vật nuôi được tăng lên nhanh chóng, nguồn gốc con giống được kiểm soát rõ ràng, đây là một nhân tố quan trọng thúc đẩy ngành chăn nuôi ngày càng phát triển, nâng cao đời sống người chăn nuôi.
2. Kỹ thuật gây rụng trứng nhiều và cấy truyền phôi
Gây rụng trứng nhiều và cấy chuyển phôi là phương pháp tạo ra được nhiều con non từ một con cái có giá trị di truyền hơn so với việc để chúng sinh sản tự nhiên, áp dụng công nghệ cao để tạo ra được những con giống tốt làm đàn hạt nhân; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam. Phương pháp này giúp nâng cao khả năng chống bệnh cho bò, nhân các giống tốt, có giá trị ra thực tế sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng di truyền của những bò cái cao sản; nâng cao khả năng sinh sản, tăng năng suất sữa, thịt; rút ngắn thời gian tuyển chọn giống vì một bò cho phôi có thể tạo ra nhiều bê chất lượng cao trong một năm.
Tại Việt Nam, kỹ thuật này đã được ứng dụng từ những năm 1980 tại Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia. Năm 1986, con bê đầu tiên ở nước ta ra đời bằng kỹ thuật gây rụng trứng nhiều và cấy chuyển phôi. Từ năm 1994, nhóm nghiên cứu của PGS. TS Hoàng Kim Giao – Viện Chăn nuôi cũng đã tạo được bê bằng kỹ thuật gây rụng trứng và cấy chuyển phôi. Đến năm 2002, lần đầu tiên tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu của PGS. TS Hoàng Kim Giao – Viện Chăn nuôi đã tạo được bê sinh đôi bằng kỹ thuật chia phôi. Cho đến nay, các cán bộ kỹ thuật của Viện Chăn nuôi đã tạo ra được rất nhiều bê bằng kỹ thuật gây rụng trứng nhiều và cấy chuyển phôi.
Ưu điểm của kỹ thuật gây rụng trứng nhiều và cấy chuyển phôi rất rõ ràng, tuy nhiên tại Việt Nam kỹ thuật cấy chuyển phôi vẫn chưa phát huy hiệu quả trong thực tế sản xuất như kỹ thuật thụ tinh nhân tạo do nhiều nguyên nhân như thiếu đầu tư chi phí, nhiều công đoạn phức tạp và kỹ thuật cao, đòi hỏi đội ngũ cán bộ có trình độ tay nghề cao và lý thuyết giỏi, chưa có sự kết nối giữa các cơ sở chăn nuôi và các Trường Đại học, Viện nghiên cứu.
3. Ứng dụng công nghệ gen trong chăn nuôi tại Việt Nam
Với sự phát triển mạnh mẽ của sinh học phân tử, các kỹ thuật di truyền phân tử đang dần được áp dụng rộng rãi vào công tác chọn giống lợn, bò. Tại Việt Nam, lĩnh vực nghiên cứu về ứng dụng di truyền phân tử còn rất mới, các kết quả nghiên cứu về gen hầu hết chỉ trên đối tượng thực vật: lúa, đỗ tương, ngô… mà chưa có nhiều nghiên cứu trên đối tượng là gia súc. Việc áp dụng kỹ thuật di truyền phân tử phân lập và mã hóa các gen liên quan đến các tính trạng thịt, sữa ở Việt Nam là cần thiết để phục vụ cho công tác chọn giống.
3.1. Ứng dụng công nghệ gen nhằm xác định nguồn gốc và đánh giá nguồn gen vật nuôi
Sử dụng chỉ thị phân tử để xác định khoảng cách di truyền và đánh giá nguồn gen vật nuôi đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Tại Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ tế bào động vật – Viện Chăn nuôi đã thực hiện một số nghiên cứu xác định khoảng cách di truyền giữa các giống vật nuôi như bò, lợn bằng chỉ thị phân tử Microsatlline. Điều này rất có ý nghĩa trong việc xác định và phân loại các loài vật nuôi tại Việt Nam, từ đó nâng cao được hiệu quả chọn giống vật nuôi. Những kết quả nghiên cứu này cũng là dữ liệu ban đầu về ứng dụng kỹ thuật gen trên đối tượng là lợn và bò của Việt Nam.
3.2. Chọn lọc dựa vào chỉ thị phân tử
Từ những năm 1990, một số nghiên cứu ứng dụng công nghệ gen trong chăn nuôi bắt đầu thay đổi từ di truyền số lượng sang di truyền phân tử. Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu được tiến hành và thu được một số gen ứng cử cho các tính trạng về chất lượng thịt, khả năng tăng trưởng… Tuy nhiên, các kết quả vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu và vẫn chưa được áp dụng nhiều trong thực tiễn chọn lọc di truyền.
Nguồn tham khảo: http://channuoivietnam.com/ung-dung-cong-nghe-sinh-hoc-trong-chan-nuoi-va-bao-ton-giong-vat-nuoi-ban-dia/